|
Truyền thống Việt bảo
"nghĩa tử là nghĩa tận", nhưng vẫn
chấp nhận rằng những con người độc địa thâm hiểm có thể bị cuốc mả, đào mồ.
Kẻ đốt sách chôn học tṛ, dù chết đă ngh́n năm vẫn không thoát bị nguyền
rủa là bạo chúa. Vả lại, bác đâu có chịu chết. Trong khi ngồi h́ hục viết
sách tự tâng bốc, bác đă mưu toan muốn sống vinh quang đời đời. Và tinh
thần bác c̣n đang sống hùng sống mạnh nơi đám thừa kế để tiếp tục dẫn dắt
quê hương đất nước xuống vực thẳm.
Chuyện tự tâng bốc của bác chỉ là một tṛ lố lăng vô hại chăng?
Tṛ ấy quả có vẻ vô hại, nhưng con người ở vị thế lănh đạo mà tự say mê
đến thế th́ cực kỳ nguy hiểm cho dân tộc. Kẻ tự kính phục thường ít khi
thấy ḿnh không sáng suốt và chẳng bao giờ chịu là ḿnh cũng có thể sai
lầm. Bác Hồ đủ tài để lôi cuốn xô đẩy một nửa dân Việt vào con đường chém
giết nửa kia, nhưng bác lại không đủ khôn ngoan để t́m ra một con đường
đúng. Nước Nga sau hơn nửa thế kỷ cách mạng vẫn chưa dám để người dân sống
cho ra con người, bác Hồ cứ khăng khăng chọn nó làm mẫu mực. Con đường đẫm
máu dẫn tới bờ vực, bác Hồ cứ phăng phăng dẫn các cháu đi. Có người nhấn
mạnh đến những thành tích của Hồ để làm lễ tôn bác làm vĩ nhân: nào là bác
có ư chí thống nhất đất nước, bác vận dụng được sức mạnh của hàng triệu
người, bác được nhiều kẻ theo, tôn sùng như thần thánh, bác có tài lănh
đạo v.v...
Ôi chao! Mí mắt nhân loại cũng nặng lắm, nhiều khi phải tốn hàng triệu
mạng người mới hé mở được những đôi mắt đang nhắm nghiền. Bác Hồ được
nhiều người theo ư? Quỉ Sa Tăng cũng có đủ tín đồ để tạo thành sức mạnh
gây khốn đốn cho các vị thánh. Bác lôi cuốn ư? Sự lôi cuốn của bác đâu qua
mặt nổi Hitler, con người vận dụng được toàn thể sức mạnh dân Đức để làm
điên đảo thế giới. Cứ gọi những kẻ ấy là các nhà lănh đạo có tài, không
sao, nhưng cái chỗ mà họ dẫn con người tới làm cho họ giống những tên điên,
không dính dáng tí ǵ đến tước hiệu vĩ nhân cả. Bác có ư chí thống nhất
đất nước ư? Quỷ Sa Tăng cũng rất quyết tâm thống nhất toàn thể thế giới
trong ḷ lửa địa ngục vậy.
Bác Hồ Yêu Nhi Đồng
Lời tự tâng bốc nghe rác tai nhất của bác là mấy câu khoe: nhi đồng Việt
Nam yêu bác Hồ mà bác Hồ cũng thương nhi đồng lắm lắm
“Đối với nhi đồng tên bác Hồ là như một
người mẹ hiền. Chỉ nhắc đến tên Bác là các em trở nên ngoan ngoăn”.
(Khoe như thế, bác tỏ ra chẳng hiểu mẹ ǵ về tâm lư nhi đồng, nhất là nhi
đồng Việt Nam. Một ông nhóc đang giở chứng mà nghe nhắc tên mẹ hiền, tên
bà nội, nó sẽ làm dữ hơn. Dọa trẻ, người ta nhắc tên
"ông kẹ", ông "ngáo ộp".
Nếu các bậc phụ huynh đă dùng tên bác thay thế cho những ông kẹ, ông ngáo
ộp th́ nhi đồng chỉ teo v́ bác chứ yêu thương ǵ!) Trong câu khoe ngắn
ngủi ấy, người đọc lại bắt gặp thói huênh hoang, ḷng tham vô độ của bác:
Đă đ̣i làm "cha già dân tộc" bây
giờ bác lại muốn là "bà mẹ hiền của nhi
đồng" rồi kiêm luôn vai tṛ nhà giáo dục siêu đẳng, chỉ x̣e cái tên
ra là trẻ hóa ngoan!
Thôi th́ cũng không nên chơi khó bác quá, cứ giả vờ công nhận rằng nhi
đồng yêu bác thật, nhưng c̣n phần bác đối với nhi đồng th́ sao? Hăy bỏ qua
những em bé bị hỏa tiễn của bác giết trong sân trường Cai Lậy ... Ta chỉ
nói về thân phận những em bé được bác âu yếm xoa đầu, được bác cẩn thận
định trước cho một tương lai, được bác săn cóc kỹ lưỡng bằng cả một kế
hoạch qui mô.
Hăy nhớ lại câu chuyện hơn 20 năm trước.
Năm Mậu Thân, Hồ mở cuộc tổng tấn công miền Nam. Dĩ nhiên miền Nam bị tàn
phá, thiệt hại nhiều nhưng đoàn quân nằm vùng của bác cũng bị tiêu diệt
gần hết. Không thắng nổi sau cuộc "xả
láng" bác bắt đầu chịu nói chuyện ḥa b́nh, hội nghị. Nghe tin miền
Bắc bỗng dưng "yêu ḥa b́nh" không
riêng ǵ người Việt, cả thế giới tự do đều mừng húm. Làm sao không vui cho
được khi cuộc chiến đẫm máu ở Việt Nam có hy vọng sẽ chấm dứt.
Hồ chí Minh yêu ḥa b́nh thật chăng? Cảnh người Việt chém giết người Việt
dai dẳng suốt mấy thập niên đă làm bác mềm ḷng, thương sót rồi chăng?
Không có đâu. Trong Bắc bộ phủ, cái đầu óc
"khôn ngoan, thiên tài" ấy lại sáng tạo ra một kế hoạch tài t́nh để
sẵn sàng cho một cuộc chém giết mới, trong tương lai, khi tấn tuồng yêu
ḥa b́nh bác thủ diễn đă ru được thế giới ngủ ngon lành, bác Hồ lại ra tay.
Kế hoạch khôn ngoan của bác, kỳ này, nhằm khai thác tận t́nh sức lực và
tính mạng của hàng trăm ngàn đứa trẻ con. Bác cho cán bộ bắt cóc trẻ em ở
miền Nam, đưa ra Bắc huấn luyện, dạy dỗ, biến chúng thành những người lính
cộng sản. Khi học tập xong, tốt nghiệp, các cháu chắc chắn sẽ được bác gửi
trở lại miền Nam để bắn giết, trong khi đó, trước mắt thế giới, bác vẫn là
người đang nỗ lực, tha thiết t́m ḥa b́nh cho Việt Nam. Bài
"Bắt Trẻ Đồng Xanh" của nhà văn Vơ
Phiến mô tả rất rơ về kế hoạch này: "Trong
những ngày gần đây ai nấy chỉ những xôn xao về chuyện ngưng chiến: Bao lâu
nữa nhỉ? Làm ǵ bây giờ?"
Trong lúc ấy nhóm lănh đạo ở Hà Nội lặng lẽ lo công việc mai sau: tức một
cuộc chiến tranh khác. Một cuộc chiến tranh quân sự hẳn hoi. Và họ tiến
hành thực hiện chuẩn bị, ngoài sự chú ư của dư luận: các b́nh luận gia có
tiếng, khét hay không khét, gần như không mảy may quan tâm đến chuyện ấy.
Cuộc bắn giết sắp tới giữa miền Nam và miền Bắc đă được cộng sản xếp đặt
từ lúc này, cũng như cuộc bắn giết thê thảm mười năm qua được họ xếp đặt
từ trước tháng 7-1954, trước ngày đ́nh chiến theo hiệp định Geneve.
Thượng tuần tháng 7-68 một nhóm luật gia họp ở Grenoble buộc Hoa Kỳ vào
tội gây chiến tại Việt Nam. Sau đó, nhóm luật gia tranh đấu chính trị Việt
Nam họp tại Sài G̣n căi lại: Mặt trận Giải phóng Miền Nam đă thành lập từ
năm 1958 và ra mắt ngày 20-12-1960, c̣n người lính Mỹ đầu tiên chỉ mới tử
trận trên lănh thổ miền Nam ngày 22-12- 61.
Người của luật pháp, họ căi lư với nhau, họ bắt bẻ nhau như thế. Không
hiểu sao họ chỉ nói tới Mặt trận Giải phóng Miền Nam. Trước họ, nhiều
người đă đi ngược lên tới Mặt trận Tổ quốc, và xa hơn Mặt trận Tổ quốc:
tới cái nghị quyết của đảng Lao động đă đẻ ra Mặt trận này .
Mặt trận này, mặt trận nọ..., đó là những bằng chứng đă có tên gọi. Chờ
cho cộng sản đặt tên rơ ràng các hoạt động của họ mới chịu cho rằng họ
hoạt động tức là nghĩ tệ cho họ nhiều quá. Họ đâu có chậm chạp như vậy?
Trước những hoạt động có tên gọi đă từng xảy ra nhiều hoạt động không tên
gọi, và trước cả các hoạt động không tên là những toan tính xếp đặt kỹ
càng. Khi họ nhận thấy không thể thanh toán cả nước Việt Nam một lần, mà
phải chấp nhận điều đ́nh với Pháp để giữ lấy nửa nước, th́ họ đă đặt ra
ngay vấn đề: c̣n lại nửa nước kia, phải giải quyết ra sao? Và họ đặt kế
hoạch "giải quyết" cùng lúc với kế
hoạch điều đ́nh. Nghĩa là vào năm 1954, chứ không phải năm 1958.
Thật vậy, hiệp định đ́nh chiến vừa kư kết, th́ những điều khoản ngưng cuộc
chiến tranh bấy giờ được họ thi hành đồng thời với những điều chuẩn bị
cuộc chiến tranh sau. Đồng thời, không muộn hơn một ngày nào. Lúc ấy,
chính quyền quốc gia lo đùm túm kéo nhau vào Nam, và tổ chức cuộc di cư
cho đồng bào miền Bắc. Di cư là đi cả nam lẫn nữ, cả già lẫn trẻ: công
chức già th́ vào theo nhà nước để lănh lương hưu, các cụ cố th́ theo con
cháu vào để được nuôi nấng và chết giữa đám con cháu v.v...
Cùng lúc ấy, cộng sản lo liệu công việc của họ có lớp lang:
- Vũ khí, họ chôn giấu lại một số ở miền Nam;
- Cán bộ và binh sĩ, họ chọn lựa một số cho ở lại: có hạng được bố trí để
len lỏi vào các cơ quan quốc gia, có hạng trở về cuộc sống thường dân chờ
thời co, có hạng đổi vùng để hoạt động, có hạng vừa lẩn trốn vừa bám lấy
địa phương để hoạt động v.v...
Địa chủ phú nông, trót bị ngược đăi tù tội, đều được tha thứ, giải thích,
dỗ dành để xóa bỏ hận thù. Những thành phân không dỗ dành được th́ họ thủ
tiêu, v́ xét nguy hiểm đối với tính mạng những cán bộ nằm vùng của họ.
- Tập kết theo nguyên tắc: Đưa ra Bắc hạng trai trẻ có thẻ lám việc đắc
lực và sản xuất giỏi cùng hạng có uy tín có khả năng; bỏ lại trong Nam
hạng lăo nhược có thể làm một gánh nặng cho quốc gia. Cố ư gây phân ly
chia cách, làm thế nào để mọi gia đ́nh đều có kẻ đi người ở.
- Gấp rút tạo thêm nhiều liên hệ giữa thành phần tập kết ra Bắc và dân
chúng miền Nam: đặc biệt là tổ chức những đám cưới cấp tốc khiến cho háng
chục vạn binh sĩ và cán bộ Việt cộng ra đi bỏ lại trong Nam bấy nhiêu cô
vợ trẻ, có những cô chỉ ăn ở với chồng được đôi ba hôm.
Bấy nhiêu cô vợ trẻ và gấp đôi gấp ba chừng ấy cha mẹ già cùng cô cậu chú
bác v.v... là một lực lượng đáng kể. Bằng chính sách tập kết và gây liên
hệ này, cộng sản cưỡng bức một số người về sau phải làm nội tuyến cho
chúng.
Ngay từ đầu, t́nh cảm của những người này đă hướng về Bắc, theo bóng kẻ
thân yêu. Thái độ và hoàn cảnh éo le của họ khiến nhà chức trách địa
phương lo ngại, đề pḥng. Do đó, họ thành một khối người dần dà sống cách
biệt, nếu không là đối lập với chính quyền miền Nam. Một vài trường hợp
đối xử vụng về bị khai thác, một vào sự hiểu lầm bị xuyên tạc: thế là mâu
thuẫn giữa hai bên trở thành trầm trọng. Rồi một ngày kia, chuyện được
tính trước sẽ xẩy ra. Xin thử tưởng tượng: gia đ́nh có đứa con hay người
chồng ra Bắc năm 1954, hai năm sau, một đêm nào đó, có kẻ lạ mặt lẻn vào
nhà, lén lút trao cho xem một lá thư và một tấm h́nh mới nhất của con hay
của chồng từ Bắc mang vào, gia đ́nh nọ làm sao nỡ tố giác kẻ lạ mặt, bù
biết họ đang gây loạn. Đă không tố giác được, tất cả phải che giấu, nuôi
dưỡng mối liên lạc. Từ việc này đến việc khác, gia đ́nh nọ dần dần đi sâu
vào sự cộng tác với tổ chức bí mật của đối phương, chịu mệnh lệnh của họ,
rốt cuộc gia nhập hẳn vào hàng ngũ của họ.
Chính v́ như thế mà thư từ h́nh bóng của cán binh tập kết có giá trị đặc
biệt quan trọng: những năm 1956, 57, 58, cán bộ từ ngoài Bắc xâm nhập vào
hoạt động, trong người họ bao giờ cũng mang theo một số thư từ, h́nh bóng
của cán binh tập kết. Đó là lợi khí hết sức đắc dụng giúp họ đặt các cơ sở
quần chúng đầu tiên. Gây được cơ sở quần chúng, vận động được sự đóng góp
số lương thực tiền bạc cần thiết để nuôi quân rồi, bấy giờ các lực lượng
vũ trang tại chỗ bắt đầu được thành lập, các lực lượng vũ trang ngoài Bắc
kéo vào. Sau đó mới có cái Mặt trận giải phóng ra đời.
Như vậy, cuộc chiến hiện nay không hề khởi đầu từ những bất măn chống một
chế độ độc tài gia đ́nh trị, không hề khởi đầu từ sau việc chính quyền Sài
G̣n từ chối cuộc tổng tuyển cử 1956, không hề khởi đầu từ ngày khai sanh
mặt trận nọ mặt trận kia. Cuộc chiến này xuất hiện ngay từ những cuộc liên
hoan chia tay giữa kẻ ở người đi trong thời hạn 300 ngày tập kết, những
cuộc liên hoan có hát có múa, có bánh trái tiệc tùng. Nó xuất hiện ngay từ
những đám cưới vội vă sau ngày đ́nh chiến, những đám cưới lắm khi tổ chức
tập thể, do trưởng cơ quan trưởng đơn vị chủ tọa. Nạn nhân đầu tiên của
cuộc chiến này không phải là những kẻ ngă gục vào 1958, 1959, mà là những
cô gái tức khắc biến thành góa bụa từ 1954.
Dân chúng miền Nam ai nấy đều biết những bận rộn tới tấp, những công việc
bề bộn ngổn ngang mà nhà cầm quyền cộng sản hồi ấy phải làm cho kịp trước
khi rút ra Bắc. Trong hoàn cảnh rộng ràng bấy giờ, nếu không v́ lư do quan
trọng, chắc chắn đảng và nhà nước cộng sản hồi ấy không đến nỗi quá sốt
sắng lo cưới vợ cho cán binh như thế. Chắc chắn dù t́m trong bất cứ thời
kỳ lịch sử nào của bất cứ dân tộc nào, cũng hiếm thấy một trường hợp chính
phủ lo vợ túi bụi đến chừng ấy.
Cũng như hiện nay, trong giai đoạn ác liệt sau cùng của chiến cuộc tại
miền Nam này, nếu không v́ lư do quan trọng, đảng và nhà nước cộng sản
nhất định không bao giờ khổ công gom góp thiếu nhi ở đây đưa ra Bắc, trải
qua bao nhiêu gian nan khó nhọc, trong những điều kiện di chuyển nguy hiểm
đến nỗi cả các binh sĩ khỏe mạnh của họ cũng phải hao ṃn suy kiệt dọc
đường.
Đưa thiếu nhi miền Nam ra Bắc, không phải cộng sản nhằm làm nhẹ gánh nặng
nuôi dưỡng, giúp các ông tổng trưởng kinh tế hoặc xă hội của chúng ta. Mọi
người đều rơ, tại Bắc Việt và Trung cộng, người ta tiết giảm sinh sản rất
gắt gao: họ hạn chế hôn nhân, hạn chế luyến ái. Đưa thiếu nhi miền Nam ra
Bắc, cũng không phải cộng sản nhằm giúp tổng trưởng giáo dục của chúng ta
một tay để giải quyết nạn thiếu trường ở trong này.
Trong giới quan sát nhiều kẻ bảo rằng Bắc Việt kiệt quệ rồi, không đủ sức
kéo dài chiến tranh nữa, họ bối rối lắm, luống cuống lắm. Dù không tin vào
nhận định ấy, ít ra cũng phải chịu rằng lúc này họ bận trăm công ngàn việc,
nếu chuyện bắt trẻ miền Nam không có một tầm quan trọng đặc biệt th́ họ
không hơi đâu nghĩ đến. Đàng này họ đang ra sức thực hiện một kế hoạch bắt
trẻ qui mô trên một phạm vi hết sức rộng lớn: đồng loạt, người ta phát
giác ra trẻ em bị bắt ở khắp nơi trên toàn quốc Việt Nam Cộng Ḥa, từ
Quảng Trị, Thừa Thiên, Pleiku, Kontum, đến Mỹ Tho, Cà Mâu, người ta gặp
những toán trẻ em chuyển ra Bắc Việt bằng phi cơ từ Cam Bốt, hoặc bị dẫn
đi lũ lượt trên đường ṃn Hồ chí Minh, nghĩa là bằng mọi phương tiện, một
cách gấp gáp.
Họ bổ xung quân số đó chăng? Không đâu. Trẻ bị bắt có hạng mới tám chín
tuổi. Trong những trường hợp khẩn cấp, họ có thể tạm sử dụng một số trẻ
con bắt được ngay tại địa phương; chứ thành lập những đơn vị con nít như
thế để dùng ngay vào chiến cuộc này là chuyện điên rồ. Không phải bổ xung
quân số đưa vào chiến cuộc đang kết thúc đâu, mà là họ đang tổ chức chiến
cuộc mai sau đấy.
Đem chút ít kinh nghiệm về lần trước để suy nghiệm về lần này, chúng ta
thấy trước dăm ba điều họ sẽ làm sau khi thỏa ước ngưng chiến được kư kết:
- Họ sẽ bỏ lại miền Nam tất cả những thương phế binh, những cán bộ lâm nạn,
tàn tật, v.v... Mang mỗi phần tử vô dụng như thế về Bắc chỉ gây thêm xúc
động tâm lư trong quần chúng ngoài ấy; để hạng ấy ở lại, họ tạo thêm gánh
nặng cho kinh tế miền Nam;
- Lúc cuộc "chiến tranh chính trị"
mà các nhà lănh đạo miền Nam vẫn nói được bắt đầu, th́ bao nhiêu ức vạn
gia đ́nh có con cháu ra Bắc (và những cô gái có chồng lính cưới vội cưới
vàng trước khi về Bắc nữa) hóa ra những thành phần mà chánh quyền không
sao lôi kéo tranh thủ nổi. Ḷng họ hướng về những con tin ở ngoài Bắc,
phân nửa sinh mạng họ do nhà đương cuộc miền Bắc định đoạt. Thái độ của họ
khiến nhà chức trách địa phương có thể phạm vào vài biện pháp kỳ thị vụng
về: thế là phát sinh mâu thuẫn, bất măn, chống đối, v.v...
Một ngày nào đó, những cán bộ từ Bắc lại lén lút xâm nhập, mang theo thư
từ của con, của chồng họ: họ mừng như mở cờ trong bụng. Họ bắt tay cộng
tác với những cán bộ nọ, cùng nhau hoạt động để tạo điều kiện cho chồng
con sớm trở về ồ ạt theo những đơn vị Nam xâm v.v... Cán binh gốc người
miền Nam đưa ra Bắc, rồi lại phải trở vào có nhiều cái lợi: khi được lệnh
vào Nam hoạt động, họ mừng rỡ v́ có cơ hội về quê; họ ra đi lặng lẽ, không
có bà con thân thuộc ở Bắc nên không gây xao xuyến ǵ trong dân chúng, vừa
giữ được yếu tố bí mật vừa tránh được tác động tâm lư bất lợi: họ lại được
mong chờ đón đợi ở miền Nam; và họ thông thạo am hiểu về dân t́nh cùng địa
thế miền Nam.
Như thế, chủ trương bắt đám trẻ em ở miền đồng bằng Nam Việt bát ngát, ph́
nhiêu đem ra xứ Bắc đông người đất hẹp, nhà cầm quyền Hà Nội chính đang
bắt đầu chiến cuộc mai sau ngay từ lúc này, lúc mà chúng ta c̣n đang xôn
xao mong ước ngừng chỉ chiến cuộc hiện tại. Nói họ bắt đầu lúc này cũng
chưa đúng: thực ra các tài liệu về "vấn
đề gửi các cháu ra miền Bắc" đă được phổ biến trong hàng ngũ cộng
sản từ tháng 4-68, và thúc dục thực hiện trước mùa mưa năm nay. Tháng
4-68, tức là liền ngay sau khi tổng thống Mỹ mở miệng thốt ra vài dấu hiệu
tỏ ư xuống thang chiến tranh để đi tới điều đ́nh.
Điều đ́nh để nghỉ ngơi, đối với Mỹ và chúng ta là thở ra một hơi dài nhẹ
nhơm. Điều đ́nh đối với cộng sản là bỏ cuộc nửa chừng, là đành không ăn
được keo này. Thua keo này họ bày liền keo khác ngay, v́ ngưng chiến thế
này, theo họ, là một sự dở dang, là chưa hoàn tất công việc.
"Thế này rồi thôi luôn hả? Nói thế mà
nghe được! Sao có thể quan niệm một cách giải quyết giản đơn, vô duyên đến
thế?".
Ư tưởng về ngưng chiến của chúng ta dính liền với một mơ ước xây dựng: bao
nhiêu tỷ bạc cho miền Nam, bao nhiêu tỷ bạc cho miền Bắc, trao đổi kinh tế
ra sao, trao đổi văn hóa thế nào v.v... Ư tưởng về ngưng chiến của cộng
sản dính liền với một kế hoạch tấn công quân sư... Và những nạn nhân đầu
tiên của trận chiến tương lai là những đứa bé con và bố mẹ chúng đă chịu
đau thương từ sáu tháng qua rồi. Trận chiến tranh tương lai đă chọn nạn
nhân của nó trong đám trẻ thơ, đàn bà miền Nam, để biến họ thành con côi
vợ góa. Xong rồi. Việc đă bắt đầu từ nửa năm nay rồi.
Trước một đối thủ như thế, thái độ của những chính khách Việt Mỹ hàng ngày
đấm ngực đồm độp, băn khoăn, tự trách ḿnh cái lỗi không kết thúc được
chiến cuộc, thái độ ấy ngây ngô đă đành. Thái độ của những người hớn hở
với một kế hoạch kinh tế hậu chiến nào đó, nghĩ cho cùng cũng mỉa mai tội
nghiệp: liệu rồi hưởng được mấy năm ḥa b́nh trước mắt mà hí hửng tính
chuyện xây dựng, mà mơ ước cảnh thịnh vượng? Rồi đến thái độ của những kẻ
nh́n xa để báo động về một cuộc chiến tranh chính trị: bảo rằng đối phương
rồi đây chỉ có hoạt động chính trị, như vậy không khác ǵ chỉ vào con cọp
mà gọi là con chó. Gần như tự lừa ḿnh, như giúp địch ngụy trang.
Dù cho chỉ có chiến tranh chính trị với nhau, đố ai, đố đảng phái nào,
liên minh nào, phong trào nào của chúng ta mà thuyết phục được mấy vạn ông
bà cha mẹ có con cháu ở Bắc, mấy vạn góa phụ có chồng ở Bắc, thuyết phục
được họ thành thực theo ta? Chỉ nắm lấy chừng ấy vạn người, cộng sản Bắc
Việt đă có trong tay một lực lượng to lớn hơn mọi đoàn thể chính trị của
chúng ta . lực lượng nằm ngay trong ḷng quần chúng ta, hàng ngũ ta mà
hoạt đô.ng. Ấy là chỉ so sánh về lượng. Mặt khác, trong số các đoàn viên
phong trào quốc gia, đảng viên quốc gia, v.v... hạng thực sự nhiệt thành
v́ lư tưởng được bao nhiêu ? Và riêng trong hạng nhiệt thành có được bao
nhiêu kẻ mà ḷng thiết tha đối với lư tưởng có thể mạnh hơn ḷng thiết tha
đối với chồng con của những phần tử bị cộng sản lợi dụng kia?
Dù chỉ có đấu tranh chính trị với nhau thôi, chúng ta đă bất lợi như thế.
Huống chi đó chỉ là hành vi tốt lành lương thiện mà ta gán cho đối phương.
C̣n họ, nếu vạn nhất trong thời gian năm bảy năm sắp tới mà đất nước này
thoát khỏi một trận chiến tranh nữa, th́ đó là ư trời, không phải là ư của
họ đâu. Ư của họ, nó tàn nhẫn đến nỗi chúng ta không dự liệu tới, không
tưởng tượng được. Đó là chỗ nhược của ta.
Năm 1954, sau chín năm ê chề ṃn mỏi v́ chiến tranh, thấy ḥa b́nh ai nấy
nhẹ nhơm; nếu có kẻ nào lúc đó mà xếp đặt một cuộc tàn sát nữa, kẻ ấy tất
ban đồng dạ sắt. Th́ Hồ Chí Minh đă xếp đặt cuộc tàn sát ngay vào thời kỳ
ấy.
Năm 1968, sau hăm ba năm chiến tranh thảm khốc, nghe nói ḥa b́nh mọi
người mừng rơn. Nghĩ tới hàng triệu người đă bỏ thây trong thời gian qua,
ai cũng tưởng làm người Việt Nam mà có kẻ dám để ư nghĩ mon men đến chiến
tranh nữa, kẻ ấy thật mặt dầy mày dạn, tán tận lương tâm. Th́ Hồ Chí Minh
đang xếp đặt thêm một cuộc chiến tranh.
Vậy mà ông ta vẫn an nhiên hưởng sự trọng vọng của bao nhiêu người, kể cả
người Việt Nam! Cho hay cái sản phẩm quái dị của thế kỷ văn minh này là
tuyên truyền chính trị, nó có một ma lực mê hoặc phi thường. Không phải
thứ tuyên truyền yếu ớt vận dụng một cách khó khăn trong khung cảnh các
nước tự do, mà là thứ tuyên truyền một chiều, qui mô, toàn diện, có thể sử
dụng các quyền lợi kinh tế hỗ trợ cho nó như ở tại các quốc gia độc tài:
Nga xô, Trung cộng, Bắc Việt, Đức quốc xă v.v...
Và Hồ Chí Minh không phải chỉ được thứ tuyên truyền ấy xóa cho ḿnh cái
chân tướng hiếu sát phi nhân. Ông ta c̣n hóa thành thiên tài lỗi lạc dưới
mắt nhiều người v́ đă tổ chức giặc giă trong một phần tư thế kỷ để giành
nửa nước, trong khi tại khắp các nước Á Phi, những lănh tụ bất tài nhất
cũng dần dần thu hồi được độc lập toàn vẹn cho quốc gia họ với những tổn
thất nhẹ hơn nhiều. Ông ta c̣n hóa thành chính trị gia khôn ngoan, thành
"cha già dân tộc" dưới mắt nhiều
người, trong khi ở các xứ khác cũng lâm vào t́nh trạng lưỡng phân không có
chính quyền nào nỡ giải quyết t́nh trạng một cách vô hiệu mà bất nhân đến
thế, trải bao nhiêu năm cứ nhất mực khăng khăng chủ trương hết cuộc tàn
sát này đến tàn sát nọ, không một mảy may sờn ḷng xúc cảm trước cảnh chết
chóc thê thảm làm cho cả nhân loại đều ái ngại.
Người như thế, không biết ḷng dạ ra sao, tim óc ra sao. Bảo rằng cùng
trong một người, vừa chứa đầy những kế hoạch xua ngay đồng bào ḿnh vào
chiến tranh liên tiếp vừa có chỗ cho t́nh yêu thương đồng bào, thật không
thể hiểu thấu.
Những lời trên đây không được nhă nhặn. Quả thật không nhă nhặn. Và kẻ
viết ra phải lấy làm ngượng về lời lẽ ḿnh. Nhưng khi ḿnh là dân một nước
đă trải qua bao nhiêu năm khói lửa, rồi lại trông thấy trước mắt một viễn
tượng đầy máu me, khi ấy nói về kẻ gây thảm họa thật khó giữ ḷng b́nh
thản để nói lời tao nhă.
Có thể nào không giận? Ông ta bảo phải đeo đuổi cuộc tàn sát nọ là v́
nguyện vọng dân tộc?
Trời, dân tộc này ai cũng xưng biết rơ vanh vách nguyện vọng, ai cũng đ̣i
hành động nhân danh nguyện vọng dân; có điều mỗi người nêu lên một nguyện
vọng khác nhau, hoàn toàn khác nhau, lắm khi mâu thuẫn nhau. Đâu là nguyện
vọng đích thực, để hồi sau phân giải. Cái chắc chắn là dân tộc này không
hề nằng nặc thiết tha với cộng sản đến nỗi chịu chết năm ba thế hệ liên
tiếp để rước kỳ được chế độ ấy về. Vả ông ta chừng ấy tuổi tác rồi, tai
nghe mắt thấy đă nhiều, từng trải việc đời đă nhiều, ông ta đâu c̣n ngây
thơ mà quáng mắt v́ những danh từ khoác lác, những hứa hẹn hăo huyền xa
xôi của một chủ thuyết. Ông ta hẳn thừa rơ những ǵ đê tiện xấu xa xảy ra
phía sau các khẩu hiệu tuyên truyền, thừa rơ con đường từ Hung-gia-lợi,
Lỗ-ma-ni tiến đến dân chủ và hạnh phúc, phải xa hơn con đường từ Thụy-sĩ,
Phần-lan.
Mà dù cho ông ta có không nghĩ như thế, cho rằng Tiệp Khắc sung sướng và
tự do hơn Thụy Điển đi chăng nữa, th́ sự hơn thua chút ít cũng không đến
nỗi bắt phải đổi lấy bằng ba bốn cuộc chiến tranh trong đôi ba mươi năm
liền. Đáng lẽ ông ta để cho dân tộc nhỏ bé đă chịu quá nhiều đọa đầy v́
ngoại thuộc này được yên thân để làm ăn, để sống cho ra sống trong ít lâu.
Đă không v́ nguyện vọng, quyền lợi dân tộc, ông ta hành động v́ lẽ đảng
ông ta nhất định phải thắng các đảng khác, v́ lẽ người như ông ta không
chịu thất bại nửa đường?
Chừng ấy tuổi tác rồi, lẽ nào v́ tranh thua, mà ông mạnh tay sát hại đồng
bào không xót thương đến thế ? Người ta có thể v́ tức khí, nóng giận mà
tàn nhẫn, vung tay quá đà. Đó là chuyện nhất thời. C̣n ông, hăm ba năm rồi,
ông dai dẳng quá.
V́ cuồng tín chăng? V́ tự ái chăng? V́ cái ǵ ông ta cũng đáng trách đáng
giận quá.
Nhưng trong vấn đề này, trách móc với giận hờn đâu có ăn thua ǵ. Một biểu
thị t́nh cảm thật vu vơ, vô hiệu. Ăn thua chỉ có chiến lược thâm hiểm,
hành động thích hợp. Lời nói dù nhă hay bất nhă rồi sẽ bay đi theo mây gió.
Chỉ có hành động mới sửa đổi được t́nh thế. Mà hành động th́ rồi chắc chắn
ở phía bên này thoạt tiên ai nấy sẽ nhảy lên mừng ḥa b́nh, rồi tiếp đó sẽ
bất đồng căi cọ nhau ỏm tỏi về chuyện xây dựng, sẽ tranh nhau làm ăn tới
tấp. Cùng lắm, lâu lâu sẽ có người sáng suốt nhắc khẽ đến chiến tranh
chính trị. Thế thôi.
Trong lúc ấy Bắc Việt lặng lẽ điều khiển cán bộ của họ ở trong này âm thầm
nhen nhóm cơ sở. Rồi đôi ba năm sau, một ngày nào đó xét thấy thuận tiện,
họ cho lệnh bùng nổ. Thế là chiến tranh tái diễn.
Chiến tranh tái diễn: mọi người trên thế giới đang sống an lành bỗng bị
quấy rầy, bị ảnh hưởng, có một số bị lôi cuốn vào cuộc chiến, lấy làm lo
ngại, bực ḿnh, quay đầu về cái xứ lắm chuyện này nh́n bằng cái nh́n xoi
mói, nghiêm khắc, trách vấn: Rầy rà thật! Ra cái xứ ấy tệ thật, tự xử
không nên thân. Loạn lạc này đích thị do độc tài, tham nhũng, bất công, kỳ
thị tôn giáo v.v... khiến dân chúng nổi lên chống chế độ. Dung dưỡng những
chính quyền, những chế độ như thế chỉ tổ tai hại v.v...
Chiến tranh ác liệt thêm: lương tâm nhân loại bị xúc phạm, các nhà triết
học gọi nhau họp ở Thụy Điển, các luật gia rủ nhau họp ở Grenoble, v.v...
trịnh trọng suy tư, trịnh trọng bàn căi, rồi lên án, kết tội, v.v... Trong
khi ấy các lănh tụ Hà Nội họ chỉ cần khéo che miệng nín cười. Đó là điều
quan trọng: họ không được phép cười. Họ không được phép chế giễu lương tâm
và trí thông minh của loài người. Họ không được vô lễ; họ chỉ được tiếp
tục đánh thật mạnh.
Cứ thế cho đến khi hoặc chúng ta chịu không nổi những đ̣n đánh từ bên
ngoài và những đằn xóc từ bên trong, chúng ta bỏ cuộc và cộng sản tiến đến
Cà Mau, hoặc bên phía chúng ta cùng đồng minh có những kẻ thật ch́; cộng
sản liệu ăn không nổi, thế là lại điều đ́nh và lại xếp đặt một kế hoạch
khác. Như vậy không biết đến bao giờ.
C̣n ba mươi năm nữa, chúng ta bước sang thế kỷ XXI. Nhiều người xem như
bước sang một kỷ nguyên mới, một nền văn minh mới: con người sẽ không chỉ
biết có quả đất, nhiều quốc gia sẽ tiến đến nền kinh tế kỹ nghệ hậu . Đó
chưa hẳn là cực lạc. nhưng cũng là cái ǵ vượt xa t́nh trạng hiện tại.
Thiên hạ nô nức đua nhau tiến đến mặt trăng, đến kinh tế kỹ nghệ, đâu như
thể cá vượt Vũ môn.
Riêng dân tộc chúng ta, ba mươi năm nữa e vẫn c̣n đánh nhau, nửa nước túm
lấy nửa nước d́m nhau trong bể máu. Các dân tộc, bất cứ da đen hay da đỏ,
đều có thể nô nức, hy vọng ở thế kỷ XXI . Riêng chúng ta, chúng ta chỉ c̣n
có mỗi một điều để đón đợi: là hết chiến cuộc này đến chiến cuộc khác, nếu
Hà Nội không từ bỏ quyết tâm của họ. Và cho đến bây giờ, họ chưa có dấu
hiệu từ bỏ.
Hỡi các em bé của đồng bằng Nam Việt xanh ngát bị bắt đưa đi, từng hàng
từng lớp nối nhau d́u nhau ra núi rừng Việt Bắc! Riêng về phần ḿnh, các
em đă chịu côi cút ngay từ lúc này; c̣n đất nước th́ sẽ v́ những chuyến ra
đi của các em mà lâm vào cảnh đau thương bất tận. Tai họa hiện xảy đến cho
các em cũng là tai họa về sau cho xứ sở. Đă sáu tháng qua rồi. Dù người ta
có thôi dài cổ ngóng về Ba-lê, đề nghị cách cứu em, th́ cũng đă muộn.
Nhưng đâu có ai chịu thôi ngóng chờ? Và trong không khí thấp thỏm chờ đợi
ḥa b́nh, ngay ngày báo chí chỉ những rập ŕnh từng thoáng tin ngưng oanh
tạc, tôi hướng về các em những ư nghĩ vô cùng buồn thảm, đen tối .
Đó là số phận những em bé được cái đầu óc lắm mưu nhiều kế của bác chiếu
cố, được bàn tay đẫm máu của bác vuốt tóc, xoa đầu. Muốn biết nỗi đau đớn
của những người bị mất con, muốn đo lường mức tàn nhẫn độc ác của bác, hăy
đi hỏi những bậc cha mẹ có con bị bắt cóc hay mất tích.
Tội nghiệp những em bé chín mười tuổi ở miền Nam, những bóng dáng xinh đẹp
Thượng Đế sinh ra để tung tăng trên những cánh đồng xanh thơm ngát và an
b́nh. Bé gái đang chiều chiều phụ mẹ nấu bếp, chăn đàn gà, nuôi con heo.
Bé trai đang vác cần câu, xách giỏ hớn hở theo cha vào sông lạch t́m con
tôm, con cá. Đột nhiên chúng biến mất. Vào lúc cha mẹ chúng nhếch nhác
khóc lóc chạy khắp làng trên, xóm dưới t́m con th́ chúng bước thấp bước
cao chập chờn trong rừng sâu, trên đường ra Bắc. Rồi chúng biến thành công
cụ gây chiến của bác.
Ít năm sau, bác trả về cho những ông cha bà mẹ khốn khổ ấy một thanh,
thiếu niên bị quỷ ám, trong cái linh hồn vô tội lúc bị bắt cóc giờ chỉ đầy
ắp những căm thù, những khao khát muốn chém, muốn giết. Cha mẹ nào nỡ tố
cáo con dù biết trong cái xác do ḿnh đẻ ra kia đă chứa một linh hồn quỷ.
Và những đứa trẻ ấy, theo đúng lời bác dậy, cứ nỗ lực phá cho tan nát vùng
đất tự do cuối cùng của cha mẹ ông bà, xóm giềng.
Lũ trẻ đồng xanh miền Bắc đâu có may mắn ǵ hơn. Không cần một kế hoạch
qui mô, quỉ quái, từ Bắc bộ phủ, bác chỉ quơ nhẹ tay là tóm cổ được hết.
Chỉ khác, khi đi ngược chiều với lũ trẻ miền Nam trên đường ṃn cũng mang
tên bác, trẻ đồng xanh miền Bắc nay đă cứng cáp, vững vàng, đă biết bắn
giết chẳng ghê tay.
Trên cổ đám trẻ đồng xanh của cả hai miền, bác đóng cho những cái gông
giống hệt nhau. Gông nào gông nấy to tổ chảng, nặng ch́nh chịch, nhưng lại
có những tên hoa lá cành: giải phóng đất nước, chống Mỹ diệt Ngụy, trường
kỳ kháng chiến cứu nước v.v... Và dù đi xuôi hay đi ngược phần lớn các em
cùng gặp gỡ ở một tương lai: phơi thây chiến địa để lót đường cho một anh
già độc ác, mù quáng, tự ái lẩm cẩm ở Bắc bộ phủ có thể đặt bàn thờ Lê Nin
trên khắp hai miền đất nước.
"Tương lai trẻ em", "Tương lai dân tộc"
thường là những món hay được các nhà cách mạng nhân danh để nêu cao
chính nghĩa. Người ta chịu gian khổ, chiến đầu, hy sinh chỉ v́ muốn các
thế hệ sau khá hơn, xă hội tương lai sáng sủa hơn. Nhưng bác Hồ càng chiến
đấu hung hăn càng đưa đất nước vào con đường mạt rệp. Những em bé chết
trong sân trường Cai Lậy trước 75 đă muôn phần hạnh phúc hơn những đứa bé
tắt thở trên vỉa hè Sài G̣n, dưới mái lều vùng kinh tế mới hiện giờ... Bởi
v́ khi nhắm mắt ĺa đời, chúng không bị bỏ đói.
Hàng vạn đồng bào Việt Nam bị phá sản hoặc bị thực dân tàn sát (trong khi
bác ngồi khoái tỉ trên tàu chiến Tây, hay đê mê nghe thụt hai mươi mốt
phát đại bác ở vịnh Hạ Long) sẵn sàng tha thứ cho bác, hàng trăm ngàn
người chết thảm trong kỳ cải cách ruộng đất sẵn sàng tha thứ cho bác,
những trẻ đồng xanh của hai miền Việt Nam sẵn sàng hy sinh cho bác, cả quê
hương Việt Nam sẵn sàng chịu tàn phá điêu linh vài thập niên v.v... nếu
cái chỗ bác muốn đưa đất nước đến là một chỗ khấm khá, nếu bác tạo cho trẻ
thơ Việt Nam một cuộc đời no đủ, tiến bộ và hạnh phúc hơn.
Nhưng quê hương đất nước, trẻ em Việt Nam giờ này ra sao th́ cả thế giới
biết rồi. Chế độ cộng sản, cái chế độ mà bác đă trả giá bằng núi xương
sông máu để rước về cho dân tộc hay ho cỡ nào th́ cả thế giới cũng biết
rồi. Nhân dân ngày đêm cầu nguyện, mơ ước được sống trong cái thế giới mà
bác đă bắt họ căm thù, xua họ đi đập phá trước đây. Trong những dinh thự
dành cho giai cấp vua quan mới chỉ thấy những khuôn mặt già nua, mù quáng,
cuồng tín, bất tài trong việc mưu cầu phúc lợi, nhưng nham hiểm, độc ác
trong việc cùm đầu, xiết cổ nhân dân. Hết thập niên này qua thập niên
khác, các đấng cộng sản chúa, cộng sản theo đuôi đua nhau ba hoa, khoác
lác đủ điều ... cuối cùng tất cả chỉ nói được một câu thực có ư nghĩa,
thực đúng là: "Chúng tớ đă sai lầm!".
Sai lầm rồi sao? Lầm đến độ tiêu tùng hàng triệu mạng, tan nát cả quê
hương, kẻ lầm lẫn có liêm sỉ chắc phải tự treo cổ, hèn nhất th́ cũng rời
khỏi vai tṛ lănh đạo. Nhưng chế độ cộng sản, những anh tự xưng là
"cha già dân tộc" cứ tha hồ lầm,
tha hồ sai trật... và rồi b́nh thản tiếp tục ngồi trên đầu trên cổ dân
tộc, tiếp tục lănh đạo. Mảnh giang sơn gấm vóc tiền nhân để lại, cuộc đời
của hàng triệu con người rút cục giống như những con chuột, con ếch trong
pḥng thí nghiệm, bị dùng để thử thuốc cai trị mới của bác, của đảng.
Những em bé đói cơm, thiếu sữa ngồi khóc sụt sùi trong những gia đ́nh tóc
tang, chia ĺa trên một quê hương nghèo đói, điêu tàn là tác phẩm của bác,
là sự nghiệp của bác. Sự nghiệp ấy được hoàn thành nhờ sinh mạng của hàng
triệu người, nhờ biết bao trẻ đồng xanh chết bụi, chết bờ. Muốn biết bác
đă làm hại quê hương, dân tộc đến cỡ nào hăy so sánh những đứa trẻ ở miền
tự do với những đứa trẻ đang nằm trong ṿng tay nuôi dưỡng của vị
"cha già dân tộc" và bè lũ.
Dưới chế độ ù ĺ, thiếu sinh khí hơn cả cái xác ướp của bác, những trẻ em
Việt Nam vốn tốt tươi, sáng láng đang bị bỏ đói, từ thân xác đến trí tuệ
đều èo uột, thiếu dinh dưỡng. Có những em bé vốn dĩ thông minh, chỉ v́ ăn
không đủ no mặc không đủ ấm, phải tự phát triển khả năng xảo quyệt, gian
trá để sống c̣n và trở thành những đứa bé tục tằn, độc ác. Trong khi đó,
những em bé thoát được đến vùng đất tự do bên ngoài quê hương đang đứng
ngang hàng cùng trẻ em khắp thế giới. Các em khỏe mạnh, đẹp đẽ và thông
minh, hiên ngang đóng góp cho sự tiến bộ, sự phồn thịnh, và cho hạnh phúc
của loài người. Cỏ cây không mọc được trên vùng đất gốc nguồn. Mầm xanh
của dân tộc chỉ mạnh mẽ, tốt tươi, vươn ḿnh lớn dậy ở những nơi... bên
ngoài quê hương!
Thành tích của bác Hồ đâu phải chỉ là một triệu mạng người trong quá khứ.
Bàn tay tàn sát của bác thật sự đă vươn tới những thế hệ mai sau, gây
thương tổn cho dân tộc không biết tới bao giờ! Mai đây, có thể lũ hậu duệ
của bác sẽ noi gương quan thầy, sẽ vẽ lại chân dung thực của bác với đầy
đủ sừng, mỏ nanh vuốt. Như Stalin rớt từ ngôi vị cha già dân tộc xuống vị
trí một tên cuồng sát. Như Mao Trạch Đông hết là ông thánh toàn hảo mà đă
hiện nguyên h́nh là một lănh tụ đầy lỗi lầm. Những mặt nạ thánh thiện lần
lượt được lột khỏi mặt mấy xác chết của những đại đồng chí khát máu, độc
tài. Có thể Hà Nội sẽ cất bác đi cho đỡ xấu hổ.
Trong trường hợp ấy, cuốn sách tự nâng bi với mặt nạ Trần Dân Tiên cần
được lưu trữ song song với cuốn sách này. Sách bác Hồ và sách Kiều Phong
phải đi đủ cặp, phải trường tồn như nhau. Thứ nhất là để mua vui và cho
bác tí công lao. Sau hơn một phần tư thế kỷ gieo rắc tiếng khóc than trên
khắp đất nước, ít nhất cũng có lúc bác làm được một cử chỉ đẹp: viết sách
tặng cho chúng ta một trận cười Thứ nh́ là để gửi lại cho những thế hệ sau
một vài kinh nghiệm: trong hàng ngũ quỷ xanh, quỷ đỏ vây quanh loài người,
nguy hiểm độc hại nhất vẫn là những con quỷ tưởng ḿnh đang làm công việc
của Thiên thần.
Bác Cũng Có Công
Từ đầu tới cuối sách chỉ toàn vạch ra những chỗ nhố nhăng lố bịch của bác,
thế nào Kiều Phong cũng bị bọn văn nô nhâu nhâu chê là thiếu vô tư, công
bằng. Để tỏ rơ phong thái đường hoàng, đại lượng của một người Quốc Gia
chân chính, Kiều Phong công khai dơng dạc xác nhận rằng bác Hồ có tới hai
công tŕnh, sự nghiệp rất ích lợi và xây dựng. Vâng, xét lại toàn bộ sự
nghiệp bác, Kiều Phong hoan hỉ thấy rằng có tới hai lần bác đă làm được
những việc thực sự có ích cho đời:
Vụ thứ nhất là vào một ngày mưa gió băo bùng, sợ chủ đói, bác kéo lê những
rổ rau trên sàn tàu, tự du ḿnh vào cái thế suưt bị sóng cuốn chết mất
xác. Dù rằng v́ vận nước Việt không khá, bác sống sót. Nhưng cái công bác
xém trừ khử được một tên quốc tặc, cũng đáng được ghi nhận.
Vụ thứ hai là bác ngồi h́ hục viết cuốn hồi kư tự nâng bi này, tŕnh làng
một bản tự khai, tự thú đầu đủ chi tiết để Kiều Phong có dịp lập bản án,
thẳng cánh tống giam kẻ hại nước, tàn dân vào vĩnh cửu.
San Diego,
2-1989
Kiều Phong
|
|
|
|
|
|